TUYỂN TẬP BỘ Sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi MỚI NHẤT

TUYỂN TẬP BỘ Sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi MỚI NHẤT được yopovn sưu tầm và chia sẻ. Thầy cô download file sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi tại mục links cuối bài. Đây là bộ sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi mới, có sáng kiến đã đạt giải tỉnh.

TUYỂN TẬP BỘ Sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi MỚI NHẤT

MỤC LỤC

 

TT Nội dung Trang
1 I. MỞ ĐẦU 1
2 1. Lí do chọn đề tài: 1
3 2. Mục đích nghiên cứu. 2
4 3. Đối tượng nghiên cứu. 2
5 4. Phương pháp nghiên cứu. 2
6 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2
7 1. Cơ sở lí luận 2
8 2. Thực trạng của vấn đề 3
9 3. Các giải pháp 5
10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 13
11 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14
12 1. Kết luận. 14
13 2. Kiến nghị. 14

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  1. MỞ ĐẦU
  2. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Như chúng ta đã biết, Toán học là một trong những môn học đòi hỏi sự tư duy sáng tạo cả người dạy và người học. Chính vì thế, để mỗi học sinh chiếm lĩnh được tri thức nói chung và Toán học nói riêng thì mỗi người thầy cô phải thật sự tâm huyết khơi nguồn tri thức đến mỗi học sinh.

Thật vậy, tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa của loài người. Muốn có tri thức thì mỗi người học sinh phải học và phải học thật tốt. Việc học phải trải qua quá trình nghiền ngẫm, suy luận tìm tòi mới có được. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Trong các môn học nói chung và môn Toán nói riêng đều có nhiệm vụ trao dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng góp phần tích cực vào việc đào tạo con người. Trong các môn khoa học và kĩ thuật , Toán học giữ một vai trò nổi bật. Nó còn là môn thể thao trí tuệ giúp ta rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, học tập và giải quyết vấn đề. Toán học còn giúp ta phát huy một số đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích sự chính xác, khẳng định chân lí.

Môn Toán là một trong những môn học bắt buộc được dạy trong chương trình Tiểu học. Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, trong lao động cũng như trong quá trình học sinh học lên các cấp học sau này. Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học được cấu trúc theo vòng tròn đồng tâm và chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một là các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn hai là các lớp 4, 5. Vì trong chương trình Toán lớp 4 nói chung và Toán có lời văn lớp 4 nói riêng là mở đầu là mở đầu giai đoạn hai ở tiểu học. Giai đoạn này, việc giải toán có sự yêu cầu và đòi hỏi cao hơn. Đó là, học sinh phải biết phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn, đưa những bài toán phức tạp về các bài toán đơn giản hơn mà các em đã biết cách giải. Học sinh biết vận dụng phép phân tích, tổng hợp trong quá trình tìm, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch giải. Vì vậy, đây là cơ sở ban đầu rất quan trọng của một giai đoạn mới trong quá trình học toán ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng.

Xuất phát từ thực tế dạy học, năm học 2017- 2018 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 4C. Ngay từ những ngày đầu năm học, khi dạy đến các bài toán có lời văn, tôi đã nhận thấy trong lớp mình còn nhiều học sinh gặp khó khăn khi giải toán. Qua khảo sát, điều tra cụ thể, có trên 40% số học sinh trong lớp kĩ năng giải toán chưa đạt yêu cầu. Và đây cũng là điều tôi suy nghĩ rất nhiều, nếu các em giải toán còn yếu thì làm sao nắm được cách giải các bài toán dựa vào sơ đồ đoạn thẳng, dùng chữ thay số, rút về đơn vị và một số dạng toán điển hình của lớp 4 như: tìm hai số khi biết tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ.

Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra và nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4”. Với hi vọng sau khi nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao trình độ của bản thân, góp phần nâng cao chất lượng dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn ở lớp 4. Qua sáng kiến này tôi cũng muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn bè đồng nghiệp, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học giải toán có lời văn cho học sinh nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng.

  1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

               Như chúng ta đã biết, việc giải toán có lời văn của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng là việc rất khó khăn đối với các em. Chính vì thế để giúp các em nắm được cách giải của một bài toán là một việc làm cần thiết. Mặt khác, để giải được một bài toán đúng các em cần phải nắm chắc và tổng hợp nhiều kiến thức toán học. Vì vậy, mục đích của đề tài này tôi đưa ra là:

+ Học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, nhận dạng bài toán và giải tốt các bài toán có lời văn.

+ Biết cách giải bài toán có lời văn lớp 4 một cách linh hoạt.

+ Biết cách trình bày bài toán một cách khoa học, chính xác, đầy đủ.

+ Đối với bản thân giáo viên: tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đức rút kinh nghiệm trong giảng dạy, nhất là mạch kiến thức toán có lời văn lớp 4.

  1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

      Với mục đích nghiên cứu của đề tài này, khi nghiên cứu tôi hướng tới các bài toán có lời văn trong sách giáo khoa lớp 4.

Được sự nhất trí và tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là lớp 4C trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám do tôi phụ trách.

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

      Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

+ Nghiên cứu trên cơ sở lí luận.

+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

+ Phương pháp thống kê dữ liệu.

+ Phương pháp trò chuyện, quan sát, điều tra, phỏng vấn.

+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm, trao đổi với đồng nghiệp.

+ Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm của học sinh.

ĐÂY LÀ SKKN ĐƯỢC TẢI TRÊN MẠNG VỀ, CÁC THẦY CÔ CHỈ THAM KHẢO KHÔNG NÊN DÙNG VÀO VIỆC THI GVG HAY CÔNG NHẬN CSTĐ VÌ BÂY GIỜ CÁC CẤP ĐỀU DÙNG PHẦN MỀM QUÉT TRÙNG SÁNG KIẾN. MỌI VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN SKKN-BIỆN PHÁP THI GVG THẦY CÔ LIÊN HỆ VỚI THẦY HÙNG-PHÓ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU HỌC KIÊN THÀNH – LỤC NGẠN – BẮC GIANG – SĐT: 0982.882.505 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ HÔ TRỢ MIỄN PHÍ VỀ CÁCH VIẾT VÀ TRÌNH BÀY SÁNG KIẾN.

 

 

  1. NỘI DUNG
  2. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn TV, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán  ở bậc trung học.

Dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng, nhằm giúp học sinh vận dụng những kiến thức về toán học vào các tình huống thực tiễn, đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Giải toán có lời văn là một trong năm mạch kiến thức toán, được dạy trong chương trình Tiểu học, đã được đánh giá là một trong các nội dung, học sinh thường hay gặp khó khăn nhất. Vì nội dung này, các bài toán có lời văn đều liên quan chặt chẽ đến các kiến thức kĩ năng của bốn mạch kiến thức còn lại. Vì vậy, khi giải bài toán có lời văn ở bất cứ dạng nào, học sinh cũng phải huy động tích hợp các kiến thức, kĩ năng đã có vào các tình huống khác nhau. Trong một chừng mực nào đó, học sinh phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo thì mới giải được bài toán. Chính vì thế, khi học sinh giải được một bài toán có lời văn tốt thì đồng thời các kĩ năng khác của môn Toán em đã nắm tốt.

Mặt khác, giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS năng lực tư duy và đức tính tốt của con người lao động mới, hoạt động trí tuệ trong việc giải toán góp phần giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo vv…

Song đối với học sinh lớp 4, các em còn hiếu động, ham chơi, chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nên thường lơ là, xem thường việc học toán. Chính vì thế, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, từ đó học sinh có kiến thức toán học một cách tốt hơn.

* Nội dung chương trình Toán lớp 4 gồm :

– Ôn tập về số tự nhiên. Bảng đơn vị đo khối lượng.

– Bốn phép tính với só tự nhiên. Hình học.

– Dấu hiệu chí hết cho 2,5,9,3. Giới thiệu hình bình hành.

– Phân số – các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi.

– Tỉ số – Một số bài toán liên quan đến tỉ số. Tỉ lệ bản đồ.

– Ôn tập các nội dung trên.

  1. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.

2.1. Thực trạng chung

Như chúng ta đã biết, chương trình toán lớp 4 là mở đầu cho giai đoạn hai của toán Tiểu học. Chính vì thế, lượng toán giải chiếm số lượng tương đối lớn, trong đó đa số là dạng toán điển hình. Mức độ khó của các bài toán giải cũng đã được nâng lên, chủ yếu là các bài toán hợp. Chính vì thế, để giải được bài toán đòi hỏi học sinh phải sử dụng nhiều kiến thức đã học để giải quyết vấn đề. Đứng trước tình hình đó, nhiều học sinh đã có biểu hiện không hứng thú với việc giải toán. Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em thường vội vàng, hấp tấp hay đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kĩ đề, làm bài chưa cẩn thận đã nộp bài. Từ đó dẫn đến bài làm còn nhiều khi bị sai, thiếu sót.

Đối với giáo viên còn phải dạy nhiều môn học, số lượng học sinh trong một lớp đông, khả năng tiếp thu của các em không đồng đều, có sự chênh lệch nhiều. Chính vì thế, việc truyền tải kiến thức toán học nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đến từng học sinh còn có phần hạn chế. Đối với các em tiếp thu chậm thì việc nắm kiến thức mới và giải các bài toán có lời văn là một việc vô cùng khó khăn.

Bên cạnh đó, trong lớp còn có học sinh tâm lí không ổn định, một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ chưa quan tâm đến việc học hành của con cái. Chính vì thế mà đôi khi, chưa có sự thống nhất cao giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. Từ đó, hiệu quả học tập của các em chưa cao, nhất là việc giải toán có lời văn lại là sự cản trở lớn trong việc hoc tập của các em.

2.2.Thực trạng của trường, lớp

       Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám là ngôi trường nằm ở trung tâm thành phố Thanh Hóa. Bản thân tôi mới về nhận công tác được gần ba năm nhưng tôi nhận thấy, đây là ngôi trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương. Trường có một tập thể cán bộ giáo viên với nhiều bề dày kinh nghiệm, có trình độ chuẩn và trên chuẩn luôn tâm huyết với nghề. Cùng với đó là ban giám hiệu luôn quan tâm tạo điều kiện để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế mà ngôi trường đã đón nhận gần một nghìn học sinh. Đây là ngôi trường mà các bậc phụ huynh luôn đặt niềm tin cao, để gửi gắm cho em mình về đây học tập.

Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì bản thân tôi còn nhận thấy một số mặt khó khăn hạn chế mà trường và lớp tôi gặp phải đó là: khuôn viên trong trường đang hẹp so với số lượng học sinh, diện tích phòng học chưa đảm bảo, số lượng học sinh trong một lớp đông. Chính vì thế mà phần nào đã ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi và sinh hoạt của các em. Còn về phần lớp4C do tôi chủ nhiệm tổng số học sinh là 42 em, trong đó có 21 em nam và 21 em nữ. Nhìn chung các em ngoan, chịu khó học bài và làm bài, phụ huynh cũng trang bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Song từ khi nhận lớp, tôi đã nhận thấy một số em trong lớp còn hiếu động, chưa tập trung tiếp thu bài, khả năng tiếp thu còn chậm, có cả học sinh tâm lí không bình thường.Phụ huynh đa số là buôn bán tự do, một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên chưa sát sao đến việc học tập của con em mình. Chính vì thế, một số em đã có tính ỉ lại, chưa có sự chịu khó, vươn lên để học tập. Đặc biệt việc nắm kiến thức giải toán có lời văn đối với các em lại càng hạn chế hơn. Bên cạnh đó khả năng tiếp thu các kiến thức của các em không đồng đều. Đối với các em tiếp thu tốt thì việc vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào từng bài cụ thể là rất tốt. Song đối với các em tiếp thu chậm, khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào từng bài cụ thể là hết sức khó khăn. Do đó, đối với giáo viên việc vừa dạy kiến thức mới, vừa ôn tập củng cố và dẫn dắt học sinh giải một bài toán là việc làm thường xuyên và cần thiết.

Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của lớp để nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh trong lớp cụ thể đề khảo sát là:

Câu 1: Lớp 4D có 20 học sinh nam và 12 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ ít hơn số học sinh nam là bao nhiêu em?

Câu 2: Một xe ô tô chuyến trước chở được 3 tấn muối, chuyến sau chở nhiều hơn chuyến trước 3 tạ. Hỏi cả hai chuyến chở được bao nhiêu tạ muối?

Câu 3: Lớp 4A trồng được 36 cây, lớp 4B trồng nhiều hơn lớp 4A 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?

Kết quả khảo sát thu được là:

 

Tổng số

Học sinh

Giải đúng và nhanh

 

 

SL              TL

Giải đúng nhưng còn chậm

 

SL             TL

Giải chưa đúng

 

 

SL              TL

42    14             33,3    16               38,2     12           28,5

 

 

  1. CÁC GIẢI PHÁP

3.1. Rèn cho học sinh các kiến thức và kĩ năng toán học, biết vận dụng linh hoạt các kiến thức và kĩ năng đó vào việc giải toán có lời văn.

Như chúng ta đã biết, để giải được một bài toán có lời văn ở bất kì một dạng nào thì chúng ta cũng phải vận dụng tổng hợp nhiều kiến thức kĩ năng đã học. Với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh là nhanh nhớ, chóng quên. Nên để các em vận dụng kiến thức đã học vào để giải một bài toán là rất khó khăn. Do đó, trước mỗi bài toán giải tôi thường cho học sinh nhớ lại các kiến thức cũ có liên quan đến việc giải toán và giúp các em có thể vận dụng linh hoạt vào để giải bài toán.

Trong phần đầu chương trình toán lớp 4 có liên quan đến giải toán đó là dạng toán “ Tìm số trung bình cộng”. Đây cũng là dạng toán điển hình được học ở lớp 4. Song để giải quyết từng bài toán cụ thể ta cần sử dụng linh hoạt các kiến thức có liên quan. Chẳng hạn với bài toán: Có 4 em Mai, Hoa, Hưng, Thịnh lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg, 40kg, 34kg. Hỏi trung bình mỗi em cân nặng bao nhiêu kg? ( Trang 27- Toán 4).

Để giải bài toán này thì học sinh cần vận dụng hai mạch kiến thức để giải. Đó là tính tổng số cân nặng của 4 em và lấy tổng chia cho 4 để ra trung bình số cân nặng của mỗi em. Song đối với những em tiếp thu chậm, chỉ tính số cân nặng của 4 em là xong.

Ví dụ:

Trung bình mỗi em cân nặng là:

( 36 + 38 + 40 + 34)  = 148 ( kg)

Điều đó cho ta thấy khả năng phân tích của các em là không tốt, chỉ có khả năng ghi nhớ một mạch kiến thức. Do đó, trước một bài toán giáo viên cần cho học sinh nắm được các mạch kiến thức liên quan để giải bài toán.

– Muốn tìm trung bình mỗi em nặng bao nhiêu trước hết ta phải làm gì?

( Tính tổng số tuổi của 4 em)

– Để tìm trung bình cộng số tuổi của 4 em ta làm như thế nào?

( Ta lấy tổng số tuổi chia cho 4)

Qua đó, học sinh sẽ hiểu rõ hơn, để giải quyết bài toán này cần phải vận dụng hai mạch kiến thức đã học.                                                                                     

    Với bài toán khác: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 35m, chiều dài bằng  3

Chiều rộng. Tính diện tích hình chữ nhật đó?                                                      2  

Để giải quyết bài toán này thì học sinh phải sử dụng các kiến thức có liên quan là công thức tìm số lớn, số bé, nửa chu vi và diện tích hình chữ nhật. Những học sinh tiếp thu chậm cũng sẽ khó nhận ra nửa chu vi chính là tổng của một chiều dài và một chiều rộng.

Để học sinh giải tốt được bài toán này thì giáo viên cần giúp học sinh nắm tổng hợp các kiến thức. Khi phân tích đề giáo viên có thể biểu diễn bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ dàng nhận ra.

Chiều dài:

35m

Chiều rộng:

 

Nhìn vào sơ đồ, học sinh có thể thấy nửa chu vi hình chữ nhật chính là tổng của một chiều dài và một chiều rộng và là tổng của hai số. Đến đây học sinh dễ dàng nhận ra đây là dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. Như vậy, để tìm được chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật học sinh phải vận dụng cách giải dạng toán trên. Khi tìm được chiều dài, chiều rộng thì một kiến thức cần củng cố cho học sinh là cách tính diện tích hình chữ nhật.

Như vậy, với một bài toán được đưa ra với nhiều hình thức khác nhau, với nhiều ngôn ngữ phong phú khác nhau. Song giáo viên cần hướng các em nắm được xem bài toán đó thuộc dạng toán gì, những kiến thức nào cần liên quan để giải quyết bài toán đó. Cách tôi thường xuyên sử dụng là ôn tập, củng cố kiến thức được lồng ghép trong từng bài toán cụ thể.

3.2. Rèn luyện qua các bước giải để học sinh có kĩ năng giải bài toán

      Như chúng ta đã biết, để giải được bài toán, ta phải tiến hành qua một số bước cụ thể như sau:

Bước 1: Rèn kĩ năng đọc và phân tích bài toán   

      – Kĩ năng đọc là một trong các kĩ năng được quan tâm chú trọng ngay từ khi các em vào học lớp 1. Kĩ năng này vẫn được rèn luyện cho các em ở các lớp trên thông qua môn tập đọc và một số môn khác. Tuy là học sinh lớp 4 nhưng kĩ năng đọc của một số em chưa tốt.

– Với những em đọc chưa tốt thì tôi luôn dành nhiều thời gian hơn cho các em được rèn kĩ năng đọc, không những trong giờ tập đọc mà còn trong cả tiết học khác như: Lịch Sử, Địa Lý, Khoa Học…Không những các em ngắt nghỉ chưa đúng mà việc đọc bỏ từ, thiếu từ thì sẽ dẫn đến các em hiểu sai đề.

Ví dụ: với đề toán “ Cả hai lớp 4A và 4B trồng được 600 cây. Lớp 4A trồng được ít hơn lớp 4B là 500 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?” ( Trang 47- SGK Toán 4). Nếu học sinh đọc không cẩn thận sẽ bỏ đi từ “ ít” thì cách hiểu bài toán lại hoàn toàn ngược lại. Chính vì thế, bước đầu tiên phải giúp học sinh đọc đề chính xác. Mặt khác, các em đọc đề tốt cũng chưa hẳn các em hiểu đề tốt. Do đó, khâu phân tích đề cũng rất quan trọng. Trong bài toán, đôi khi người ta sử dụng bằng các ngôn ngữ tự nhiên như “ bay đi”, “ cho đi”, “ ăn đi”… có nghĩa là số lượng đã được bớt đi. Hay các từ “ đổ đều”, có nghĩa là chia đều. Hay với những dạng toán tổng hiệu, tổng tỉ, hiệu tỉ. Đôi khi trong bài toán người ta không nói rõ đâu là tổng, đâu là hiệu và đâu là tỉ. Song qua việc phân tích đề bài ta phải xác định ra đâu là các dữ kiện bài toán đã cho tương ứng với từng dạng toán. Có bài toán dạng tổng tỉ như sau:

Ví dụ: “Có 10 túi gạo nếp và 12 túi gạo tẻ cân nặng tất cả là 220kg. Biết rằng số gạo trong mỗi túi đều cân nặng bằng nhau. Hỏi có bao nhiêu kg gạo mỗi loại?” ( Trang 152-SGK Toán 4). Trong bài toán này các em phải hiểu được “ tổng” của hai số được thay bằng cụm từ “ nặng tất cả”, tỉ số của hai số đó chính là số túi gạo nếp và số túi gạo tẻ. Chính vì thế, trước một bài toán các em phải biết phân tích đề và đưa bài toán về các dạng toán quen thuộc để giải.

Mặt khác, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong học toán có nhiều từ gần như là “ mặc định” trong đầu các em. Ví dụ các em cứ thấy từ “ nhiều hơn” là nghĩ đến phép cộng và từ “ ít hơn” là nghĩ đến phép trừ. Nên khi gặp một bài toán có các từ như thế thì các em dễ giải sai. Ví dụ bài toán: Trong đợt phát động trồng cây, lớp 4A trồng được 32 cây, lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây. Hỏi trung bình mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây?

   Có một số học sinh đã trình bày bài giải như sau:

Lớp 4B trồng được số cây là:

32 + 6 = 38 ( cây)

Lớp 4C trồng được số cây là:

32 – 6 = 26 ( cây)

Như vậy, các em đã bị ám bởi từ “ít hơn”, từ này đã làm lạc hướng học sinh nên các em đã chọn phép tính trừ trong phép tính thứ hai, trong khi phép tính đúng là phép cộng.

Thật vậy, để giúp học sinh đọc kĩ bài toán thì tôi luôn rèn cho học sinh kĩ năng đọc, đồng thời để học sinh phân tích, xác định được dạng toán thì cần phải giúp học sinh hiểu đề. Như chúng ta đã biết, mỗi đề toán thường có hai bộ phận, bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ phận thứ hai là những điều chúng ta phải tìm. Muốn giải bất kì bài toán nào thì chúng ta cũng phải xác định đúng hai bộ phận đó. Chúng ta cần giúp học sinh tập trung vào những từ quan trọng gọi là từ khóa của đề toán. Từ nào chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Cần giúp học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán, để từ đó hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. Đồng thời khi giải toán tôi yêu cầu học sinh đọc đề nhiều lần, rồi hướng học sinh phân tích xem bài toán cho ta biết gì? Hỏi ta điều gì? Từ đó học sinh phân biệt được các yếu tố cơ bản của bài toán có lời văn. Những dữ kiện ( cái đã cho), những ẩn số (cái chưa biết, cần tìm), những điều kiện ( quan hệ giữa các điều kiện và ẩn số).

Khi học sinh đọc đề toán mà giáo viên nhận thấy từ nào trong đề bài mà học sinh có khả năng không hiểu thì bằng nhiều cách khác nhau để giúp học sinh hiểu từ đó. Ví dụ, với bài toán đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng, nếu để các em tự lực thì sẽ có nhiều em lựa chọn sai phép tính ở lời giải thứ hai. Chính vì thế, khi học sinh đọc đề và phân tích đề, tôi cho học sinh giải thích xem là em hiểu “ Lớp 4B trồng được nhiều hơn lớp 4A là 3 cây nhưng ít hơn lớp 4C là 6 cây có nghĩa là như thế nào?”

Từ các lí do nêu trên cho chúng ta thấy việc đọc đề, phân tích và hiểu đề là một trong những việc làm cần thiết để giải bài toán có lời văn.

Bước 2: Tóm tắt đề và lập kế hoạch giải bài toán

Thật vậy, sau bước đọc đề và phân tích đề thì việc tóm tắt đề toán một cách cô đọng, rõ ràng, chính xác góp phần rất lớn trong việc hướng tới, tìm ra cách giải bài toán chính xác. Thông qua việc tóm tắt, học sinh sẽ biết chắt lọc những chi tiết cần thiết về toán học, lược bỏ đi những ngôn ngữ đề rườm rà không phục vụ cho việc giải toán. Song với đối tượng học sinh lớp tôi, còn nhiều em tiếp thu chậm. Do đó, khi tóm tắt bài toán đã được giáo viên hướng dẫn đọc đề, phân tích nhưng vẫn còn lúng túng, tóm tắt không đúng, không rõ ràng, rườm rà. Ví dụ với bài toán: “ Người ta xếp những gói kẹo vào 24 hộp, mỗi hộp chứa 120 gói. Hỏi mỗi hộp chứa 160 gói kẹo thì cần bao nhiêu hộp để xếp hết số gói kẹo đó?”

( Trang 87 – SGK Toán 4)

Với đề bài này nhiều em thường không biết tóm tắt bài toán ngắn gọn và thường tóm tắt như sau:

Xếp gói kẹo vào: 24  hộp

1 hộp                  : 120 gói

Mỗi hộp            : 160 gói

Cần bao nhiêu hộp để xếp?

Với tóm tắt như trên thì học sinh khó hoàn thành bài giải tốt so với những em có tóm tắt ngắn gọn và xúc tích.

1hộp 120 gói : 24 hộp

1hộp 160 gói:  ….. hộp?

Như vậy, đối với những dạng toán trên thường cho học sinh tóm tắt bằng lời, còn đối với những dạng toán tổng hiệu, tổng tỉ hay hiệu tỉ thì thường cho học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. Đối với các dạng toán này, khi hướng dẫn tóm tắt  cần lưu ý cho học sinh các từ ngữ “ gấp rưỡi, giảm đi, gấp lên”. Do đó giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh các thao tác vẽ. Khi có thuật từ “ gấp rưỡi” thì cần dùng sơ đồ minh họa và cho học sinh nhận thấy, nếu biểu diễn A là một đoạn thẳng thì B bằng đoạn thẳng của A và thêm một nửa đoạn thẳng của A. Từ các thao tác đó, học sinh sẽ nắm thành thạo các dạng tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, một trong những dạng tóm tắt ngắn gọn, xúc tích nhất mà thường được sử dụng trong giải một số dạng toán điển hình ở lớp 4.

Tiếp theo việc tóm tắt đề toán thì cần giúp học sinh lập kế hoạch giải bài toán.

Đến bước này cần giúp học sinh xác định trình tự các bước giải, đối với những bài toán liên quan nhiều dữ kiện, các em không biết xác định cách giải bắt đầu từ đâu. Ví dụ bài toán: Một ô tô cứ đi 12km thì tiêu hao hết 1 lít xăng, giá tiền 1 lít xăng là 7500 đồng. Tính số tiền phải mua xăng để ô tô đó đi được quãng đường dài 180km?  ( Trang 163-SGK Toán 4)

Thật vậy, với đề trên những em tiếp thu tốt thì việc giải toán không gặp khó khăn, nhưng với những em tiếp thu chậm thì sẽ lúng túng và vướng mắc, không biết tìm cái gì trước, cái gì sau. Chính vì thế, giáo viên cần biết được các đối tượng trong lớp để giúp đỡ các em. Để các em nắm được trình tự các bước giải, tôi đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp và đối thoại để dẫn dắt các em đi đến hướng giải đúng.

+ Muốn biết số tiền mua xăng để đi hết quãng đường, trước hết ta phải tính được gì? ( Tính số lít dầu ô tô đã đi hết)

+ Bài toán đã cho biết những gì để em tính được ra số lít dầu? ( Quãng đường dài 180km và cứ 12km thì chạy hết 1 lít xăng)

+ Tính số lít xăng em làm như thế nào?

+ Tính số tiền em làm như thế nào?

Qua việc phân tích và dẫn dắt bài toán, từ đó giúp các em xác định được trình tự các bước để giải bài toán. Bên cạnh đó, giáo viên và những em học tốt trong lớp sẽ hỗ trợ , giúp đỡ những em chậm. Với những cách làm như vậy được sử dụng thường xuyên liên tục sẽ giúp cho các em có những bước tiến bộ trong việc tóm tắt và xác định hướng giải bài toán đúng.

Bước 3: Giúp học sinh rèn kĩ năng trình bày bài giải

Thật vậy, cùng với việc đọc đề, phân tích và tóm tắt bài toán thì việc rèn cho học sinh kĩ năng trình bày bài giải là một việc làm rất quan trọng. Trong thực tế cho chúng ta thấy, nhiều học sinh có khả năng tư duy toán học tốt, phát hiện vấn đề rất nhanh và có thể tìm ra ngay kết quả của bài toán nhưng khi trình bày thành một bài giải hoàn chỉnh, lại có kết quả chưa tốt, một trong những nguyên nhân đó là kĩ năng trình bày của các em chưa tốt. Trong bài toán giải thường mắc các lỗi như là: chữ viết nguệch ngoạc, xấu, hay sai, tẩy xóa nhiều, không biết trình bày bố cục sao cho hợp lí. Câu lời giải diễn đạt chưa rõ ràng hoặc viết quá sơ sài, cộc lốc. Viết phép tính không đầy đủ, thiếu chính xác, không điền hoặc điền sai danh số. Chính vì thế việc rèn cho học sinh kĩ năng trình bày bài giải là rất cần thiết. Để rèn được kĩ năng này tôi tiến hành thực hiện các bước như sau:

– Việc rèn chữ viết, tôi tập trung uốn nắn cho các em có chữ viết chưa đạt yêu cầu. Việc này không những được rèn trong tiết toán mà còn được rèn thường xuyên trong các tiết học khác, nhất là tiết chính tả. Tôi thường xuyên nêu gương những em có chữ viết đẹp để các em trong lớp noi theo và uốn nắn cho mình.

– Cùng với việc rèn chữ là việc rèn cho học sinh có kĩ năng trình bày bố cục bài giải sao cho phù hợp với từng nội dung của mỗi bài. Với những câu lời giải ngắn thì các em cách lề từ đâu, câu lời giải dài thì các em cách lề từ đâu. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh có nhiều câu lời giải khác nhau, không nhất thiết có một câu lời giải như công thức. Qua đó học sinh sẽ rèn được kĩ năng ngôn ngữ nhưng vẫn đảm bảo sự chính xác. Đối với phép tính, khi viết các em chú ý phải viết số chính xác, không lộn số, nhầm số và nhớ ghi đúng tên danh số. Đối với những dạng toán tính chu vi hình chữ nhật, dạng toán tổng tỉ, hiệu tỉ thì cần phải sử dụng dấu ngoặc đơn trong những phép tính cần thiết.

– Bên cạnh việc làm trên thì một kĩ năng tôi cần rèn cho học sinh đó là, các em phải kiểm tra lại phép tính và tính cẩn thận vào vở nháp rồi mới ghi kết quả vào vở.

Ví dụ với bài toán trên có thể trình bày bài giải như sau:

                                                              Bài giải:

Số lít xăng để chạy hết quãng đường dài 180km là:

180 : 12 = 15 ( lít)

Số tiền mua xăng để đi hết quãng đường là:

7500 x 15 = 112500 ( đồng)

Đáp số: 112500 đồng

Đối với những bài toán đơn gian thì có thể bớt một vài bước hoặc một vài hoạt động trong các bước trên, với HS khá giỏi khuyến khích các em giải bài toán bằng nhiều cách. Phân tích, so sánh tìm ra cách giải hay, hợp lí nhất. Đây là cách rất tốt để HS rèn luyện cho mình năng lực suy nghĩ độc lập, linh hoạt, trí thông minh và óc sáng tạo.

Với những cách làm trên, tôi đã hướng dẫn cho học sinh có được cách trình bày bài giải một cách chính xác khoa học.

3.3. Hướng dẫn HS giải các bài toán có lời văn điển hình ở lớp 4.

*Dạng 1:  Tìm số trung bình cộng.

GV phải giới thiệu số trung bình cộng và cách tìm số trung bình cộng.

Bài toán 1:  Rót vào can thứ nhất 6l dầu, rót vào can thứ hai 4l dầu. Hỏi nếu số dầu đó được rót đều vào 2 can thì mỗi can có bao nhiêu lít dầu?

– GV cho HS đọc bài toán.

– Cho 1HS lên trước lớp thực hành, HS quan sát: Dùng một can thứ ba đựng số lít dầu của hai can(6l và 4l), sau đó rót đều số dầu ở can thứ ba vào lại hai can. HS quan sát số dầu của hai can lúc này đều là 5l.

– GV giảng: trộn 6l dầu và 4l dầu vào can thứ ba nghĩa là chúng ta đang tính tổng số lít dầu của hai can. Sau đó ta chia đều số lít dầu vào hai can nghĩa là đang lấy tổng số lít dầu chia cho 2. Kết quả là : (6+4):2 = 5 (l )

Ta gọi 5 là số trung bình cộng của hai số 6 và 4.

Ta nói : can thứ nhất có 6l, can thứ hai 4l, trung bình mỗi can có 5l.

– GV hỏi để HS nhớ lại cách giải bài toán trên, giúp HS hoàn thiện câu trả lời: Tính tổng số lít dầu của hai can, rồi lấy tổng số lít dầu chia cho 2.

– Rút ra cách tìm số trung bình cộng của hai số :

+ Muốn tìm số trung bình cộng của 6 và 4 ta làm như thế nào? HS trả lời.

+ Tổng 6+4 có mấy số hạng?

GV nhấn mạnh: Để tìm số trung bình cộng của 6 và 4 chúng ta tính tổng của hai số rồi lấy tổng chia cho 2, 2 chính là số các số hạng của tổng 6+4.

Cho HS vận dụng tìm số trung bình cộng của nhiều số và lưu ý từ ngữ trong dạng toán.

Bài toán 2:  Số học sinh của ba lớp lần lượt là 25 học sinh, 27 học sinh, 32 học sinh. Hỏi trung bình mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?

– HS đọc đề toán, xác định dữ liệu đã cho, yêu cầu của bài toán. GV hỏi : em hiểu câu hỏi của bài toán như thế nào ?

– GV lưu ý HS cách nhận dạng bài toán “Tìm số trung bình cộng” thường có chữ “trung bình” ở phần hỏi hay phần yêu cầu của bài toán.

– GV phân tích câu hỏi của bài toán như sau:

Hỏi trung bình mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?

:             3                                 Tổng

– Dựa vào phân tích trên HS rút ra cách giải bài toán trên.

– Từ phép tính của bài toán ta viết :  (25+27+32) : 3 = 28  rút ra cách tìm số trung bình cộng của nhiều số.

Đối với dạng toán này, ngoài việc HS nắm được khái niệm số TBC, biết cách tìm số TBC của nhiều số. Ngoài ra GV còn phải củng cố một số công thức thông thường mà HS hay sử dụng để giải các bài toán có liên quan như :

Số trung bình  =  Tổng :   ( số các số hạng)

Tổng               =     Số trung bình cộng  x  Số các số hạng

Số các số hạng  =   Tổng  :   Số trung bình cộng

*Dạng 2:  Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.

Bài toán:  Tổng của hai sốlà 70. Hiệu của hai số là 10. Tìm hai số đó.

Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ, căn cứ vào sơ đồ hướng dẫn HS tìm ra các cách giải.

 

 

Cách 1:

Sử dụng sơ đồ biểu thị mối quan hệ về tổng, hiệu. Các em sẽ tóm tắt như sau:

 

 

 

Số lớn :

70

Số bé   :                                               10

 

Nhìn vào sơ đồ, yêu cầu HS nhận xét :

+ Nếu lấy tổng – Hiệu, kết quả có quan hệ như thế nào với số bé ? (GV che phần hiệu là 10 trên sơ đồ)… HS dễ dàng nhận thấy phần còn lại là 2 lần số bé.

+ Dựa vào suy luận trên, yêu cầu HS nêu cách tìm số bé là :

(70 – 10) : 2 = 30

Tìm được số bé suy ra số lớn là :

30 + 10 = 40   Hoặc   70 – 30 = 40

+ Từ đây ta xây dựng cách giải thứ nhất là :

Số bé =  (Tổng – Hiệu ) : 2

Số lớn = Số bé + Hiệu   hay   Số lớn = Tổng – Số bé

Cách 2:    Cũng biểu thị mối quan hệ hiệu nhưng sử dụng sơ đồ sau:

 

Số lớn :

10           70

Số bé   :

 

Suy luận nếu thêm một đoạn thẳng hiệu ( 10 ) vào số bé ta được hai đoạn thẳng bằng nhau, tức là hai lần số lớn. Từ đó suy ra :

Số lớn là :

( 70 + 10 ) : 2 = 40

Số bé là :

40 – 10 = 30  hay  70 – 40 = 30

Sau khi HS nắm được cách giải, ta xây dựng cách giải thứ hai của dạng toán như sau :

Số lớn = ( Tổng + Hiệu ) : 2

Số bé  = Số lớn – Hiệu   hay Số bé  =  Tổng – Số lớn

Khi HS làm các bài toán thuộc dạng này, GV lưu ý HS chọn một trong hai cách giải trên và xác định đúng số lớn hay số bé trong bài toán để có cách giải đúng.

   *Dạng 3:  Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó.

   Bài toán :  Một đội tuyển học sinh giỏi toán có 24 bạn, trong đó số bạn gái bằng  số bạn trai. Hỏi có mấy bạn gái, có mấy bạn trai ?

Sử dụng sơ đồ tóm tắt bài toán như sau:

 

 

? bạn

 

 

Số bạn trai :

24 bạn

Số bạn gái :

  

? bạn

Từ sơ đồ trên HS dễ dàng thấy được hai điều kiện của bài toán và sơ đồ gợi cho HS biết 24 gồm 5 + 3 = 8 phần bằng nhau. Từ đó giúp HS tìm giá trị của một phần bằng cách  24 : 8  và GV hỏi giúp HS biết được số bạn gái là 3 phần như thế ( Lưu ý HS tìm số bạn gái trước hay số bạn trai đều được).Vậy tìm số bạn gái là :24 : 8 x 3 = 9 bạn), từ đó tìm được số bạn trai.

Ví dụ :                              Bài giải:

Theo sơ đồ, tổng số phần bằng nhau là :

5 + 3 = 8 (phần)

Số bạn gái là :

24 : 8 x 3 = 9 (bạn)

               Số bạn trai là :

24 – 9 = 15 (bạn)

Đáp số:  Bạn gái: 9 bạn

Bạn trai :  15 bạn

          Từ bài toán trên xây dựng các bước giải của bài toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”.

Bước 1 :   Vẽ sơ đồ minh hoạ.

Bước 2 :  Tìm tổng số phần bằng nhau.

Bước 3 :  Tìm số lớn (hoặc số bé)

Bước 4 :  Tìm số còn lại.

Trong 4 bước giải, GV cần lưu ý HS bước 3(bước làm gộp): phải tìm giá trị của 1phần trước bằng cách lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần rồi nhân với số phần của số đang đi tìm.

Nắm được các bước giải HS sẽ biết áp dụng để giải nhiều bài toán cùng dạng, HS giỏi sẽ biết áp dụng quy tắc để giải các bài toán khó dạng này (đó là các bài toán cùng dạng như tổng, tỉ được thể hiện dưới dạng ẩn).

 *Dạng 4:  Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó.

     Sau khi HS làm thành thạo  dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” thì khi đến dạng toán này HS sẽ làm dễ dàng hơn. Hướng dẫn theo các bước giải sau:

Bước 1 :   Vẽ sơ đồ minh hoạ.

Bước 2 :  Tìm hiệu số phần bằng nhau.

Bước 3 :  Tìm số lớn (hoặc số bé)

Bước 4 :  Tìm số còn lại.

Ở dạng toán này GV cần giúp HS thấy được điểm giống và khác so với dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Qua đó nhằm củng cố, khắc sâu cách giải của dạng 3 và dạng 4.

3.4. Phối hợp với phụ huynh trong việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh

Như chúng ta đã biết, với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, các em đang rất hiếu động, ham chơi, nhanh nhớ và cũng chóng quên. Chính vì thế, những dạng toán có lời văn, với thời lượng một tiết học trên lớp, khả năng ghi nhớ của các em chưa sâu, ngay lúc đấy các em có thể nhớ nhưng sang nội dung khác là các em có thể quên ngay. Chính vì thế, ở nhà phụ huynh cần đôn đốc, nhắc nhở các em sau mỗi bài học cần  nắm lại quy tắc, cách làm qua các ví dụ trong sách giáo khoa và các bài tập đã được luyện tập. Từ đó, các em sẽ ghi nhớ một cách bền vững, khả năng vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào giải bài toán có lời văn tương sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Đó là một trong những giải pháp tôi đã sử dụng thường xuyên trong việc giúp học sinh nắm tốt các kiến thức nói chung và giải toán có lời văn nói riêng.

  1. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN

       Thật vậy, việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn là việc làm thường xuyên liên tục trong quá trình dạy học toán ở Tiểu học. Song trong năm học 2017-2018, tôi đã vận dụng các giải pháp trên cho học sinh lớp 4C do tôi phụ trách. Trong một thời gian ngắn cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Các em đã biết vận dụng những điều tôi hướng dẫn để giải một bài toán. Các em đã biết xác định được dạng bài và nắm được cách giải, biết viết câu lời giải phù hợp, viết được phép tính đúng, chính xác, bố cục rõ ràng, đẹp. Qua đó tạo cho các em niềm say mê, thích thú đối với những bài toán có lời văn.

       Để khảo sát lại kết quả của các em trong thời gian vừa qua, tôi đã tiến hành ra đề kiểm tra để, khảo sát chất lượng giải toán có lời văn cho học sing lớp 4C cụ thể như sau.

Câu 1: Có 9 ô tô chuyển thực phẩm vào thành phố, trong đó 5 ô tô đi đầu mỗi ô tô chuyển được 36 tạ và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được 45 tạ. Hỏi trung bình mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tạ thực phẩm?

Câu 2: Một lớp học có 35 học sinh, trong đó     số học sinh xếp loại khá. Tính

số học sinh xếp loại khá của lớp học đó?

 

Câu 3:  Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 120m, biết rằng chiều dài gấp hai lần chiều rộng. Tính diện tích của hình chữ nhật đó?

 

Tổng số

Học sinh

Giải đúng và nhanh

 

 

SL              TL

Giải đúng nhưng còn chậm

 

SL             TL

Giải chưa đúng

 

 

SL              TL

42 20               47,6 18          42,9     4                         9,5

 

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

 

  1. KẾT LUẬN

Qua các giải pháp thực hiện trong năm học 2017 – 2018 đã tạo bước chuyển biến trong nhận thức và hành động của học sinh lớp 4C về môn Toán. Các em đã nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo khi giải các bài toán có lời văn.

Trong thực tế giảng dạy và qua thời gian nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh người giáo viên cần phải:

– Chú trọng việc đầu tư soạn bài.

– Chú trọng tốt các nội dung, hướng dẫn học sinh qua từng bài cụ thể.

– Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực tự giác của học sinh.

– Cần quan tâm sát sao, nắm bắt đối tượng học sinh để có kế hoạch dạy phù hợp.

– Kịp thời uốn nắn, sửa sai cách làm bài, trình bày bài cho học sinh.

– Quan tâm chú trọng tổ chức cho các em luyện tập nhiều để trao dồi kĩ năng giải toán cho học sinh.

– Thướng xuyên kiểm tra đánh giá để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời.

Đối với học sinh cũng cần thực hiện tốt những công việc sau đây:

– Tập trung nghe giảng, có tinh thần tự học, tự rèn luyện.

– Tích cực đọc sách ghi nhớ cách làm của mỗi dạng toán đã học.

– Tăng cường học tập toán, đặc biệt là giải toán có lời văn.

– Nắm chắc về lí thuyết và cách giải từng dạng bài.

  1. KIẾN NGHỊ
  2. Phụ huynh

– Thường xuyên nhắc nhở con em mình đọc sách xem lại bài cũ ở nhà.

– Chuẩn bị đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập cho con em.

– Cần bố trí góc học tập cho các em.

  1. Nhà trường

– Cần có giải pháp để giảm bớt số lượng học sinh trong một lớp, tạo điều kiện cho giáo viên sát sao được nhiều hơn đến các đối tượng học sinh.

 

XÁC NHẬN CỦA  NHÀ TRƯỜNG         HHT, ngày 6 tháng 4 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép của người khác.

NGƯỜI VIẾT

 

 

 

                                                                                      Đỗ Thị Lương

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO, PHỤ LỤC

  1. Tài liệu tham khảo

– Sách giáo khoa toán lớp 4.

– Sách giáo viên toán 4.

– Sách một số phương pháp dạy học toán ở Tiểu học.

– Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.

  1. Phụ lục

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài: “CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP 1”

 

Phần 1: Mở đầu

Ngay từ khi bước vào nghề Sư phạm, tôi đã coi đó là cái nghiệp mà mình phải theo và gắn bó suốt đời. Xuất phát bởi một mục đích ấy nên tôi coi công việc hằng ngày của mình như một phần lẽ sống. Tôi muốn công việc mình đã và đang làm sẽ thực sự có ích cho cộng đồng, cho chính bản thân mình. Do vậy nên tôi thường trăn trở tìm mọi cách để công việc của mình thu được kết quả. Kết quả ấy nằm ngay trong chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh qua mỗi năm tôi dạy.

Tôi nghĩ rằng: Nếu mình yêu thích công việc của mình thì mình sẽ làm được tốt. Trẻ cũng vậy, các em đạt được hạnh kiểm tốt và văn hoá khá giỏi chính các em cũng phải yêu thích công việc của mình. Vậy làm thế nào để các em yêu thích công việc học tập của mình? Để đạt được điều đó trước tiên các em phải thích học. Từ kinh nghiệm thực tế tôi nhận thấy học sinh thích đi học là những học sinh tìm được niềm vui khi tới lớp, những cháu đó được thầy yêu, bạn mến và việc học tập đối với các cháu không mấy vất vả. Học sinh đến trường phải có niềm vui, có vui mới học được tốt.

Trong buổi học nhiệm vụ năm học đồng chí Hiệu trưởng có kêu gọi tập thể giáo viên trong trường “làm thế nào để mỗi ngày học sinh đến trường là một ngày vui”. Tôi rất tâm đắc với ý kiến trên. Bởi ý kiến đó đã trùng lặp với điều mình hằng trăn trở bao lâu nay. Thế là như một mầm cây ủ sẵn trong đất nay gặp mưa nên được dịp phát triển. Vào năm học mới, tôi định hướng trước cho mình phải gây được tâm thế cho học sinh trong những ngày đầu năm học để rồi dẫn dắt các em bước vào năm học đầy tự tin và phấn khởi. Để có được kết quả tưởng chừng như đơn giản thế thôi nhưng cách thức để đi đến cái đích đó thật không đơn giản chút nào. Có được niềm vui cho trẻ không phải tạo ra được từ một giờ học, một ngày học hay một tuần học mà phải lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh trên một bình diện rộng ở mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, qua cách cư xử, bảo ban của giáo viên cho học sinh. Do vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật nhẫn nại, có tình thương thực với học trò. Chỉ có tình thương yêu thực sự và lòng cảm thông của cô mới đem lại niềm vui cho học sinh khi đi học.

Học sinh tiểu học là giai đoạn tất yếu của quá trình học. Đó là giai đoạn mở đầu cho một con người đến với văn hoá. Cũng từ giai đoạn này nhân cách của học sinh được hình thành và dần dần phát triển, ví như trong xây dựng cơ bản, khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại thì việc xử lý nền móng là hết sức quan trọng mà nền móng của ngôi nhà lại nằm dưới đáy nhà và một phần sâu trong lòng đất nên những người bình thường thì không nhìn thấy được mà chỉ có những nhà chuyên môn mới quan tâm và nhìn thấy bản chất, tầm quan trọng, giá trị đích thực của nền móng đó. Giai đoạn học sinh ở bậc tiểu học nhất là giai đoạn lớp một với học sinh là hết sức quan trọng. Đây chính là giai đoạn nền móng của quá trình phát triển năng lực tư duy và đặc biệt là quá trình phát triển nhân cách của học sinh sau này.

Học sinh lớp một rất ngay thơ, tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, vẽ lên đó đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô chủ nhiệm. Đặc biệt là những năm gần đây khi các trường có điều kiện tổ chức cho các em học ngày hai buổi thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp với thầy cô chủ nhiệm, với bạn bè. Nếu trong quãng thời gian đó các cháu không may gặp phải người “thợ vẽ tồi”, người công nhân xây dựng thiếu trách nhiệm thì suốt đời “trang nhân cách” của các em sẽ giữ lại vết hằn khó xoá. Nhận thức được tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là chủ nhiệm lớp một tôi luôn tự nhủ , trước tiên mình phải là một tấm gương cho học sinh về cách ăn nói mẫu mực , xử sự với học trò đúng mực “nghiêm túc” nhưng “thân thiện” thực sự có lòng yêu thương thông cảm với các em sao cho các em cảm nhận cô giáo như người mẹ thứ hai của các em, là chỗ để các em tin cậy về mặt tinh thần nhưng không quá thân thiết để học sinh có thể bỡn cợt quên khoảng cách giữa giáo viên và học sinh. Xuất phát từ những suy nghĩ như vậy tôi đã chọn cho mình đề tài về “Công tác chủ nhiệm lớp 1”

 

Phần 2: Nội dung

A . Cơ sở lý luận

  1. Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh lớp 1

Học sinh lớp 1 còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hoàn cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận thức và nếp sống cũng khác nhau. Đặc biệt tư duy trẻ lớp 1 cũng rất cụ thể cảm tính. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, hiếu động chưa biết tập chung lâu sự chú ý vào một cái gì đó. Năm đầu tiên của đời học sinh, trẻ rất bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang hoạt học tập, đặc biệt rất dễ xúc động với các yêu cầu và quy tắc của trường học.

  1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách, phát triển tư duy và nhận thức của học sinh.

Giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách, phát triển tư duy và nhận thức của học sinh là mục tiêu và là nhiệm vụ hàng đầu của nhà trường phổ thông. Giáo dục đạo đức phải làm ngay từ nhỏ, càng sớm càng tốt, nhưng phải phù hợp với trẻ. Tục ngữ có câu: “Dạy con từ thuở còn thơ ”.

Giáo dục đạo đức phải làm sớm, bởi lẽ: Tuổi thơ trong trắng dễ hấp thụ cái mới, để được cảm hoá, thuyết phục. Những điều răn dạy ban đầu đến với trẻ bao giờ cũng in dấu ấn sâu đậm nhất. Trong tâm trí trẻ nếu không có giáo dục sớm, trẻ cũng tiếp thu một cái gì đó ngoài dự kiến của chúng ta. Những cái đó nếu là điều sai trái, việc giáo dục lại khó khăn gấp bội . Kinh nghiệm của ông cha xưa đã đúc kết:

“Bé không vin, cả gãy cành !”

Học sinh lớp 1 cũng không phải là quá bé, với vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm đạo đức và kiến thức đã thu được ở gia đình, nhà trẻ, các lớp mẫu giáo, các em có thể tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và kiến thức ban đầu ở dạng hành vi cụ thể không khó khăn, từ đó làm nẩy nở những tình cảm, thói quen đạo đức và những tư duy ban đầu của các em. Và nếu chúng ta không quan tâm giáo dục ở lứa tuổi này thì đó là điều sai lầm của chúng ta và chúng ta là người đầu tiên phải gánh chịu hậu quả đó.

  1. Mục tiêu của công tác chủ nhiệm.

Công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học nhằm giúp học sinh:

Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo dức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo chuẩn mực đạo đức đó.

Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện .

Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin; yêu thương, tôn trọng con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.

Từng bước giúp học sinh khám phá và tìm hiểu kiến thức và kỹ năng cơ bản phù hợp với trình độ, lứa tuổi của học sinh .

  1. Thực trạng của công tác chủ nhiệm hiện nay.
  2. Đối với giáo viên

Chưa tìm hiểu và khám phá được điểm mạnh và điểm yếu, điểm còn hạn chế của từng học sinh. Đặc biệt là chưa tìm được giải pháp để phát huy hết khả năng sáng tạo và phát triển tư duy cho trẻ, chưa tìm được giải pháp khắc phục những nhược điểm về ý thức và nhận thức của trẻ .

  1. Đối với học sinh

Khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học sinh còn nhiều hạn chế, chỉ có một số học sinh khá giỏi mạnh dạn tham gia còn học sinh nhút nhát thì thu mình ngại tham gia.

Học sinh chưa mạnh dạn tự tin trong việc phân tích, xử lý tình huống … Do khả năng đánh giá hành vi của bản thân và xung quanh còn thiên về cảm tính.

Xuất phát từ khó khăn trên mà tôi đã có những giải pháp sau để tháo gỡ khó khăn đó làm cho công tác chủ nhiệm được dễ dàng hơn .

  1. Giải pháp thực hiện

I . Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ .

Như chúng ta đã biết ngoài vệc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các bài giảng ở trên lớp của tất cả các bộ môn được giảng dạy trong nhà trường thì việc xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các giờ chơi , giờ hoạt động tập thể … là hết sức cần thiết và bổ ích. Vì vậy với khuôn khổ của đề tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề là: Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ chơi, giờ hoạt động tập thể.

  1. Xây dựng , hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ chơi.

Sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi thì giờ chơi là giờ các con được vui chơi thoải mái, chơi những gì mà con thích. Chính vì vậy mà đã nẩy sinh bao nhiêu vấn đề làm cho người làm công tác chủ nhiệm phải hết sức quan tâm , tìm ra những giải pháp phù hợp để giờ chơi thực sự trở thành một giờ chơi lành mạnh và bổ ích. Qua niều năm làm công tác chủ nhiệm tôi đã xây dựng cho mình kế hoạch để hướng dẫn các con có giờ chơi thật thoải mái, lành mạnh vổ ích cụ thể như sau:

Ngay từ đầu năm tôi đã kết hợp với nhà trường và ban phụ huynh của lớp chuẩn bị cho các con một số vật dụng cần thiết phục vụ cho giờ chơi như: Cầu lông, dây nhảy, quả cầu, giấy vẽ, bút màu, phấn màu, bộ xếp hình, que tính, sách, báo, truyện, những viên sỏi trắng để chơi trò ô ăn quan ….

Đến giờ chơi tôi cho các con tự chọn các vật dụng để phục vụ trò chơi mà con thích . Với trò chơi mà các con chưa biết cách chơi tôi đã hướng dẫn và chơi cùng các con .

Ví dụ: Với những trò chơi đá bang, đá cầu, cầu lông hay nhảy dây hầu như các con đã biết nên các con có thể tự chơi. Nhưng với các trò chơi như xếp hình, sử dụng que tính, bút màu, phấn màu, giấy vẽ… tôi sẽ hướng dẫn và có thể gợi mở ý tưởng cho các con .

Với bộ xêp hình: có thể chơi cá nhân, hay một nhóm từ 2 đến 3 em: xếp thành hình bông hoa, các con vật, ngôi nhà ….

Với bút màu, phấn màu và giấy vẽ: các con có thể vẽ những tranh mình yêu thích trên giấy hoặc trên bảng lớp…. Giáo viên có thể định hướng cho các con vẽ theo chủ điểm hàng tháng như tháng 9 về ngôi trường thân yêu; tháng 10 vẽ về chủ đề an toàn giao thông; tháng 11 vẽ về ngày nhà giáo Việt Nam; tháng 12 vẽ về chú bộ đội …

Với que tính: Các con có thể thỏa thích xếp các hình đã học, xếp hình ngôi nhà nhiều tầng …

Với những viên sỏi trắng tôi đã hướng dẫn các con chơi trò ô ăn quan, xếp các hình do con tưởng tượng ….

Thông qua các trò chơi như vậy các em được thả tâm hồn mình vào các trò chơi, các em say sưa hứng thú, thỏa sức sáng tạo, thư giãn đầu óc sau các giờ học. Qua đó các con được giao lưu , học hỏi và biết thêm bao điều mới lạ. Từ đó thức và nhân cách của các con dần hình thành và phát triển theo một chiều hướng tốt.

  1. b) Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ hoạt động tập thể.

Ngoài các giờ hoạt động tập thể dạy theo các chủ điểm của từng tuần ,từng tháng, thì hàng tuần tôi dành một khoảng thời gian nhất định để trò chuyện với các con để dược nghe chính các con nói, chính các con kể cho tôi nghe những tâm tư nguyện vọng của mình (có thể nói trực tiếp hoặc viết ra những những tâm sự đó) để từ đó tôi hiểu và gần gũi các con hơn.

Trong lớp có các bạn trai và bạn gái tôi muốn các con hiểu được rằng cần phải có tình cảm và những mối quan hệ chung giữa các bạn trong lớp. Tôi quyết định tiến hành cuộc nói chuyện bí mật để hướng các em theo con đường đó.

Vì sao lại nói chuyện bí mật? Tôi có suy nghĩ về chuyện này.

Thứ nhất, các em gái không cần phải biết tôi đã khuyên các bạn trai những gì . Nếu không có thể xảy ra những đối đáp như thế này: “Cô giáo sai cậu đưa áo khoác cho các bạn gái à? Nào hãy đưa nhanh nhanh lên!” Và sự quan tâm tốt đẹp của các bạn trai sẽ biến thành một nhiệm vụ phiền hà. Khi đó sự ân cần bị mất vẻ đẹp thẩm mỹ và cơ sở đạo đức. Nếu các em gái không biết nôi dung sinh hoạt của chúng tôi thì bất kỳ một sự quan tâm nào của các bạn trai cũng sẽ được tiếp nhận với tình cảm biết ơn .

Thứ hai, khi cánh cửa đóng kín tôi có thể nói với các em trai thẳng thắn hơn, giải thích cho các em hiểu thế nào là phẩm cách một người đàn ông. Tính chất bí mật của buổi nói chuyện này bắt buộc các em trai phải nhìn vào mình khác đi: người ta nói chuyện một cách nghiêm túc, tin tưởng ở các em, nghĩa là các em đã khôn lớn!

Thứ ba, trẻ thích những bí mật nào đó của mình. Việc tiếp xúc như thế kích thích các em hoạt động. “Đây là bí mật của chúng mình” có nghĩa là “Cái đó rất quan trọng”. Ngoài ra tính bí mật – một trong những nét đẹo nhất của trò chơi trẻ em. Trẻ giữ bí mật về chuyện gì? Các em bí mật cái mà có lẽ cả thế giới đều rõ. Và vấn đề không phải bí mật như thế nào, mà là ở chỗ có bí mật. Còn tôi lại muốn các em thể hiện sự ân cần nam giới với bạn gái. Vậy là sự mong muốn của chúng tôi trùng nhau: tôi cho các em nhiệm vụ bí mật còn các em cố gắng hoàn thành.

Khi các em trai đi vào lớp, tôi đóng cửa, để các em ngồi gần tôi và bắt đầu nói nho nhỏ, nghiêm túc:

– Thầy muốn tổ chức trong lớp chúng ta một hội những người đàn ông chân chính. Ai trong số các em muốn trở thành người đàn ông chân chính thì giơ tay!

Các em ngạc nhiên…

a/ Trẻ rất thích được thể hiện mình.

Trong lớp tôi có một số học sinh thường thích mình là nhân vật trung tâm, muốn được làm mẫu để các bạn chú ý tán thưởng và đề cao mình. Nắm được đặc điểm tâm lý đó tôi thường tranh thủ cho các em có dịp thể hiện mình.

Trong giờ học toán Việt là một học sinh thông minh nhanh nhẹn thường làm toán xong trước các bạn,mỗi khi làm bài xong cháu thường ngoảnh đi ngoảnh lại khoe với các bạn “ tớ xong nhất’’ nhưng bài em làm rất ẩu. Để chấn chỉnh điều đó, tôi cho em lên bảng chữa bài kèm theo một điều kiện “Nếu trình bày đúng và đẹp cô sẽ thưởng cho điểm 10”. Vì cháu rất thích được bạn khen và thán phục mình, trước lời động viên và yêu cầu của cô nên cháu đã làm bài trên bảng vừa nhanh vừa trình bày bài cẩn thận. Cháu trở về chỗ ngồi với điểm10 và một tràng pháo tay giòn giã của các bạn. Cháu vui lắm nét mặt hớn hở , hãnh diện vì được các bạn đề cao là người giải toán nhanh nhất .

Cháu Quỳnh Chi cũng vậy, cháu có giọng đọc lưu loát, diễn cảm nên tôi cho cháu đọc bài mẫu cho các bạn,đọc truyện cho các bạn nghe đầu giờ cháu rất vui khi 10 được các bạn tặng cho danh hiệu “Người có giọng đọc của phát thanh viên”. Cũng từ đó tôi thấy các cháu trong lớp có sự thi đua ngầm, cháu nào cũng muốn được lên đọc như bạn. Trong giờ kể chuyện, Đạo đức, Tập đọc tôi thường xuyên cho các cháu đọc phân vai hay đóng những đoạn tiểu phẩm (giờ Đạo đức) đa số học sinh đều xung phong tham gia bởi các cháu muốn được dịp thể hiện mình, nội dung tiết học với các em mang tính tự nhiên, mọi thành viên đều cảm thấy vui vẻ thoải mái và rất tích cực hoà nhập với tập thể lớp, học sinh được thể hiện nhiều qua các tiết học trở lên bạo dạn tự tin hơn trước đám đông.

  1. Tính hiếu thắng của trẻ

Hầu như bất cứ đứa trẻ nào cũng có tính hiếu thắng.Tôi gắn sự hiếu thắng đó theo hướng tích cực, xây dựng tính hiếu thắng đó trở thành hướng phấn đấu vươn lên trong học tập của mỗi học sinh.Trong lớp tôi chọn một số cặp học sinh ngang sức nhau khuyến khích các cháu thi đua với nhau trong khoảng thời gian ngắn , với thời gian đó cháu nào vượt lên thì sẽ được khen và tìm một bạn có sức học khá hơn để ghép đôi. Làm như vậy các cháu luôn phải cố gắng vì sợ thua bạn .

Ví dụ: Đầu năm tôi xếp cháu Linh cạnh cháu Mai Anh là hai học sinh có học lực khá ngang nhau, tôi ghép các cháu thành đôi bạn cùng tiến và thi xem ai có nhiều cố gắng hơn trong học tập. Sau hai tháng lực học của cháu Mai Anh vượt lên so với cháu Linh, đến lúc đó tôi lại ghép cháu Mai Anh với cháu Khuê có lực học giỏi hơn. Lúc ấy Khuê lại là cái đích để cháu Mai Anh cố gắng vì muốn chiến thắng bạn.

Hay Minh Đức và Hoàng Anh là đôi bạn viết chữ xấu, tôi gia hạn một tháng cháu nào có ý thức rèn chữ viết đẹp hơn bạn thì bạn đó sẽ được tặng danh hiệu “ngưòi chiến thắng”. Suốt thời gian ấy giữa hai cháu có sự chạy đua ngầm vì cháu nào cũng muốn mình là người chiến thắng.

Tôi thường xuyên vận động những cuộc chạy đua nho nhỏ như vậy và quả nhiên lớp tôi có phong thi đua học tập sôi nổi hơn. Những cuộc thi đua như vậy tôi 11 cho là rất lành mạnh, nó giúp các cháu luôn có cái mốc mới cao hơn cần vươn tới. Những cháu sẵn có tính hiếu thắng thường thu được kết quả rõ rệt sau mỗi cuộc đua.

c/ Học sinh cần được khích lệ động viên

Tôi thường nhìn nhận và quan sát học sinh và sự vận động, nhìn thấy những tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ tôi cũng kịp thời động viên khen ngợi trước lớp để cháu phấn khởi và tiếp tục phấn đấu. Bên cạnh đó tôi còn quan tâm đến từng học sinh nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt và những em chậm tiến. ……..

2/ Chia sẻ với phụ huynh học sinh

Học sinh rất thích được điểm tốt và phụ huynh luôn mong: Sau mỗi buổi đón conở trường về lại được con mình khoe có những điểm tốt, những chuyện vui ở lớp. Chỉ cần có thế thôi cũng đủ để bố mẹ thêm vui và vợi đi bao sự nhọc nhằn của cả một ngày lao động vất vả. Cũng chỉ cần có thế mà bữa cơm gia đình học sinh hôm ấy cảm thấy ngon miệng hơn và hạnh phúc hơn. Nhưng thực tế không phải bao giờ các cháu cũng học bài và làm bài chuyên cần để cô giáo sẵn lòng cho ngay điểm tốt. Nhiều khi kiểm tra bài, học sinh vì một lý do nào đấy không đủ bài tôi vẫn nghiêm khắc cho điểm kém kèm theo lời khiển trách nhưng vẫn ôn tồn mở lối cho học sinh. Nhắc cho học sinh nợ điểmđến lần kiểm tra sau đồng thời thông báo cho học sinh biết điều đó. Cách làm này đã làm mất đi sự thất vọng trong lòng các em và mở ra cho các em hy vọng để cố gắng ở lần sau. Những em này luôn có tư tưởng gỡ lại điểm nên đã: lập công chuộc tội “rất hào hứng xung phong được kiểm tra vào tiết học tiếp. Phụ huynh học sinh biết được điều đó đều cố gắng đọng viên con học và họ không băn khoăn, lo lắng về kết quả học tập của con mình có thể rơi vào mức độ “báo động”

3/ Niềm vui đến với trẻ

  1. Thân thiết tình thầy trò

Tạo đựơc tâm thế cho học sinh trong buổi học là vô cùng cần thiết. Hiểu điều đó nên tiết đầu tiên tôi không bao giờ quở trách, trách phạt bất cứ một học sinh nào. Dù hôm đó học sinh đi muộn hay quên đồng phục hoặc quên sách, vở, thiếu phần chuẩn bị… Nếu nặng lời mắng mỏ sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi buồn, cảm giác có tội sẽ đè nặng, phá tan sự tiếp thu của học sinh trong cả buổi học hôm ấy. Chính cô giáo cũng bị ức chế, buồn bực, tức tối trong suốt giờgiảng của mình. Để tránh tình trạng trên,sáng sáng khi bước chân vào lớp ttôi thường nghĩ ra một câu chào, một câu đùa hóm hỉnh hoặc sau lời chào là một vài cử chỉ ân cần: Khi thì sửa lại tóc cho em này, lúc lại cài áo cho em kia… vv…Để sao cho học sinh cảm nhận được một ngày học mới bắt đầu hết sức nhẹ nhàng và ấm áp. Đến cuối ngày học hôm ấy, tôi cho các em bình cjhọn ai học ngoan và ai tiến bộ nhất trong ngày. lúc đó là lúc mà tôi nhắc nhở khuyết điểm mà các cháu học sinh hồi sáng mắc phải. Nếu lỗi cháu đó mắc phải mà nặng, cháu sẽ tự đứng trước lớp tìm xem mình sai ở chỗ nào rồi hứa với tập thể lớp, với cô giáo sẽ sửa những sai lầm đó.

Cả ngày học sinh ở trường, cô giáo trong thời gian đó thay vai trò người mẹ ở nhà của các cháu. Mỗi khi có cháu kêu sốt, mệt hay đau bụng giữa tiết học tôi không làm ngơ mà ân cần hỏi han bình tĩnh sử lý lúc thì xoa cho cháu này chút dầu khi thì pha cho cháu khác cốc nước có cháu mệt quá không đỡ tôi đưa cháu xuống phòng y sỹ hoặc thông báo cho gia đình cháu đến..

Lớp tôi đa số các cháu đều ăn ngủ trưa tại trường nên cứ đầu giờ chiều nên cứ đầu giờ chiều tôi lại hỏi han tỷ mỷ các cháu cháu nào ăn nhanh, cháu nào ăn chậm, cháu nào bỏ cơm, cháu nào không ngủ trưa?… để kịp thời nhắc nhở các cháu và trao đổi với giáo viên quản lý trưa và gia đình để có sự điều chỉnh.

b- Học mà chơi – chơi mà học

Học sinh đến trường thì phải vui chơi. Giờ ra chơi tôi hướng dẫn cho các cháu trò chơi tập thể, mượn cho các cháy dây, cầu, bóng vv.. để học sinh được chơi hết mình , được cười đùa thật vui vẻ . Trong giờ học để các cháu tiếp thu bài được dễ hơn,tôi cũng thường tổ chức các trò chơi, tạo điều kiện để đông đảo học sinh được tham gia tham gia : ví dụ chơi hái hoa dân chủ trong giờ ôn tập môn, tự nhiên,xã hội;chơi đóng kịch phân vai trong giờ đạo đức( luyện tập), chơi ai nhanh hơn trong giờ toán và “Giọng đọc vàng’’ trong giờ tập đọc..vv.Những kiến thức cơ bản học sinh được học dưới dạng trò chơi, các cháu thấy hứng thú và tiếp thu kiến thức nhanh hơn đồng thời tôi nhận thấy thông qua các trò chơi tính cách của các cháu được bộc lộ rõ ràng hơn.Qua đó tôi nhận xét cụ thể về tính cách của từng cháu để có biện pháp giáo dục phù hợp.

c- Khen thưởng động viên

Thứ sáu cuối tuần có tiết sinh hoạt lớp, học trò lớp tôi rất thích và háo hức chờ đón . Các cháu được tự do bình bầu nhau. Những cháu được cô khen vì tiến bộ từng mặt: học tập, kỷ luật hay chỉ là có chữ viết tiến bộ hơn tuần trước đều được phát phần thưởng. Vào những ngày lễ tết hoặc sinh nhật của từng em, học sinh cũng nhận được những món quà nhỏ nhưng nó đã thực sự mang đến cho ccác cháu niềm vui khi đến trường:

Ví dụ 1: Tết Nguyên đán tôi mừng tuổi cho các cháu một quyển vở kèm theo những lời chúc: Em gặp may mắn.

Ví dụ 2: Ngày 8 tháng 3 để các cháu gái có ý thức về giới tính của mình, tôi hướng dẫn các cháu trai làm một món quà tặng cho các bạn gái cùng bàn ngoài ra tôi còn cho cả lớp vẽ, cắt một bông hoa có ghi điểm 9, điểm 10 về tặng bà tặng mẹ.

Những món quà tuy nhỏ nhưng đã thu được những giá trị tinh thần lớn bởi tôi đọc thấy trên gương mặt của các em sáng lên niềm hân hoan với những nụ cười hồn nhiên của con trẻ.

Mang niềm vui đến cho con trẻ từ những việc làm bình thường như vậy nhưng cũng khiến cho học sinh cảm thấy tình thương yêu và sự quan tâm săn sóc của cô với các cháu. Từ sự cảm nhận này khiến cả phụ huynh lẫn học sinh đều cảm thấy tin tưởng các cháu thấy mỗi buổi đến trường là một ngày vui. Khi phụ huynh gửi gắm các cháu cho nhà trường, cho cô mà hoàn toàn yên tâm vững dạ.

  1. Kết quả

Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp một bằng những việc làm cụ thể đã nêu ở trên tôi nhặn thấy có sự chuyển biến rõ rệt qua các số liệu thống kê sau: …………………………………………………………………………………………………………….

Phần III. Kết luận

Trên đây tôi đã trình bày một số việc làm trong công tác chủ nhiệm của mình để giúp học sinh có nhiều niềm vui khi đến trường. Những việc đó thành hình khó đặt tên , càng khônh thể diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Tôi thực hiện nó lúc có thể được, khi tiếp xúc với học sinh” trẻ đến trường trong niềm vui “là một khái niệm rộng do tác động của nhiều yếu tố: Con người, môi trường, hoàn cảnh …vv… nhưng theo chủ quan tôi nghĩ mình góp phần nhỏ trong niềm vui ấy của các cháu. Học sinh của lớp tôi đi học với tâm trạng rất thoải mái và hứng khởi. Tuyệt nhiên không có những cháu phải co kéo, phụng phịu níu tay cha mẹ trước buổi đi làm. Thầy cô bước vào lớp các cháu không có vẻ sợ hãi, rụt rè. Trái lại nhiều cháu đón tôi với nụ cười tươi tắn trên môi bào buổi sáng vì biết thế nào cô cũng gây tiếng cười nho nhỏ cho mình. Giao tiếp giữa cô vtrò hoà hợp thân ái, học sinh nhận thấy cô giáo mình thật gần gũi nhưng không bao giờ chớt nhả, bỡn cợt với cô. Quan sát các cháu trong giờ chơi tôi cũng thấy các cháu cư xử với nhau hoà nhã, hiện tượng nói tục, chửi bậy hạn chế rất nhiều và dường như không có. Các cháu bớt đi những lời nói thô lỗ, cục cằn gay gắt. Đôi khi gây lỗi với bạn, các cháu thường xuyên nhận ra và tự giải quyết một cách nhanh chóng không làm phiền lòng cô như những ngày đầu nhận lớp.

Bằng sự cảm nhận của mình, tôi đã đọc được tình cảm của học sinh dành cho cô giáo và qua sự đánh giá, nhận xét tâm lý của phụ huynh về con mình. Tôi nghĩ những việc làm nho nhỏ của mình đã góp phần tích cực trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển nhân cách của học sinh mình chủ nhiệm trong năm đầu cấp 1 này.

Điều quan trọng tôi đã làm được một việc đó là: Làm cho các cháu cảm thấy yêu trường. Những dấu ấn của những ngày đầu, năm đầu cắp sách tới trường sẽ cùng các em đi suốt cuộc đời .

Trên đây là những suy nghĩ và việc làm cụ thể trong công tác chủ nhiệm của tôi. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí trong ban lãnh đạo và đồng nghiệp.

Download file sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi

Thầy cô download file tại links dưới đây.

PASS GIẢI NÉN: yopovn.Com
4.8/5 - (5 bình chọn)

BÀI TRONG SERIES: Sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên giỏi

<< MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TỐT LỚP HỌC THÂN THIỆN TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌCPOWERPOINT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Chuyển dịch từ dạy kĩ năng “Nghe – Viết” sang dạy kĩ năng “Nghe – Ghi” trong dạy phân môn Chính tả lớp 5 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh >>
How to whitelist website on AdBlocker?

How to whitelist website on AdBlocker?

  1. 1 Click on the AdBlock Plus icon on the top right corner of your browser
  2. 2 Click on "Enabled on this site" from the AdBlock Plus option
  3. 3 Refresh the page and start browsing the site